Bia "Thanh Mai Viên Thông tháp bi" Chùa_Thanh_Mai

Bia "Thanh Mai Viên Thông tháp bi"
青梅圓通塔碑
Bảo vật quốc gia số 6, đợt 5
Bia "Thanh Mai Viên Thông tháp bi" (lớn hơn, bên phải)
Chất liệuĐá
Chiều cao131 cm
Chiều rộng82 cm
Chiều dày14 cm
Hệ chữ viếtChữ Hán
Niên đại1362
Thời kỳ/Văn hóaThời Trần
Hiện lưu trữ tạiChùa Thanh Mai, Hải Dương

Bia Thanh Mai Viên Thông tháp bi là tấm bia có niên đại tuyệt đối, có giá trị lớn khi nghiên cứu lịch sử Phật giáo nói riêng và lịch sử văn hóa Việt Nam nói chung. Bia được dựng năm 1362, hơn 30 năm sau ngày Pháp Loa viên tịch (Viên Thông tháp là nơi táng xá lị Pháp Loa phía sau chùa), đã ghi lại thân thế sự nghiệp của ông, đồng thời là một biên niên sử Phật giáo và những sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thời Trần.[7]

Tình trạng hiện vật

Năm 1994, Sư thầy Thích Chí Trung về trụ trì chùa Thanh Mai thì tấm bia nằm ngổn ngang lẫn với những tấm bia khác, rùa đá và các hiện vật khác. Nhà chùa đã mang tấm bia này gắn lên lưng rùa đá rồi cho đặt tại vị trí như hiện nay. Chính vì bị vất ngổn ngang ngoài trời, mưa nắng nên tấm bia này đã bị bào mòn, nhiều chữ trên bia mờ hẳn.[5]

Bia hiện được đặt trong nhà bia có mái che phía trước Chính điện. Bia cao 131 cm (không tính bệ rùa đá), rộng 82 cm, dày 14 cm. Bia đặt trên lưng một con rùa đá còn nguyên vẹn, đủ đầu, mai, đuôi, bốn chân đều có 5 móng.

Do nhiều chữ trên bia đã mờ nên hiện nay vẫn chưa có bản dịch đầy đủ và chính xác của toàn bộ văn bia "Thanh Mai Viên Thông tháp bi". Các nhà nghiên cứu dịch văn bia dựa trên bản gốc chữ Hán trên bia và một số văn bản khác cũng nói đến cuộc đời Đệ nhị tổ Pháp Loa như[7]:

  • Phần "Đệ nhị tổ niên phả thực lục" trong sách Tam tổ thực lục (kí hiệu A.786 tại Viện nghiên cứu Hán Nôm)
  • "Đệ nhị đại tổ bi trùng tu sự tích kí" (thác bản N°13506-13510 tại Viện nghiên cứu Hán Nôm) khắc năm Tự Đức thứ 9 (1866) dựa trên văn bia năm Chính Hòa thứ 5 (1684) tại chùa Hương Hải (xã Hoàng Hoa Thám, Chí Linh)
  • Bản dịch bia Thanh Mai năm 2002 của nhà nghiên cứu Cảnh Tuệ Linh (Đại học Trung Chính, Đài Loan)

Mỹ thuật

Bia được tạo tác bằng đá xanh nguyên khối được đặt trên lưng rùa đá. Chính giữa mặt trước trán bia đề 6 chữ "Thanh Mai Viên Thông tháp bi" chia làm hai hàng, chữ khắc theo kiểu Triện thư cách điệu (triện ngạch). Thân bia khắc bài minh được viết theo kiểu Lệ thư, chữ viết mềm mại, thần thái sống động[5].

Trán bia trang trí đôi rồng có mào thời Trần chầu hai bên, hướng vào triện ngach. Viền ngoài bia trang trí hoa văn dây cuốn cách điệu. Chân bia trang trí hoa văn sóng nước hình núi đặc trưng thời Lý - Trần (hoa văn như ý). Mặt sau không có hoa văn, triện ngạch dù có đủ đường viền hoa văn xung quanh và phần cách chia của triện, nghĩa là nội dung khung hình của mặt trước và mặt sau là đồng bộ[7].

Văn bản học

Hai mặt bia khắc hơn 5000 chữ Hán. Nội dung chữ đã mờ nhiều, có chỗ đọc rõ hoặc đoán được. Mặt trước gồm 39 dòng, mỗi dòng 68 chữ. Mặt sau gồm 42 dòng, đa phần là mỗi dòng 68 chữ, cuối bia có vài dòng rất ít chữ.

Văn bản do Thị giả Trung Minh tập hợp và soạn, được Huyền Quang khảo đính lại. Bia đá được đệ tử Trí Nhu xuất tiền mua, Thiệu Tuệ viết chữ, Kim Sơn và một đệ tử nữa (mờ tên) phụng khắc vào năm Đại Trị thứ 5 (1362) khi cả Pháp Loa và Huyền Quang đều đã viên tịch[7].

Văn bia cho biết những thông tin giá trị về văn bản chữ Hán thời Trần:

  • Đầu tiên là việc kỵ húy chữ Nguyệt (月) (tên bà Thiện Đạo quốc mẫu, mẹ đẻ Thiên Cảm hoàng hậu). Toàn bộ chữ "nguyệt" trên bia đã được viết thiếu một nét ngang trong lòng chữ.
  • Thứ hai là việc đài chữ (chữ liên quan đến vua, hoàng tộc, triều đình thì bỏ một khoảng trống phía trước và viết dòng sau nhô cao lên) triệt để trên toàn bộ văn bản, không như nhiều văn bản Phật giáo chỉ đài một số chỗ hoặc không hề đài.

Nội dung

Nội dung văn bia ghi lại nhiều thông tin quan trọng về thiền phái Trúc Lâm và phật giáo Việt Nam thời Trần.

Năm 1314, các đệ tử của Pháp Loa cho xây dựng nhiều tháp, chùa ở khắp nơi[8]:

Sư tạo hơn 1300 tượng Phật lớn nhỏ, hơn 100 tượng bằng đất, dựng hai ngôi chùa lớn và 5 tòa tháp, lập hơn 200 tăng xá, độ hơn 15.000 tăng ni, in bộ kinh Đại tạng.

Năm 1328, thiền sư (Pháp Loa) cho đúc một pho tượng Di Lặc và tâu xin nhà vua cho được rước tượng từ nền điện lên bảo tọa để dát vàng. Văn bia viết:

Niên hiệu Khai Thái năm thứ nhất (1324), ngày 12 tháng 11 năm Giáp Tý, Bảo Từ hoàng thái hậu xin với Phổ tuệ Minh Giác tôn giả, tổ thứ hai dòng Trúc Lâm cho dựng tượng Di Lặc cao 6 thước. Tư đồ Văn Huệ Vương và Thượng Trân thái trưởng công chúa xin cúng chín nghìn lạng hoàng kim để đúc pho tượng ấy. Con trai trưởng của công chúa Nhật Trân là Thuận Ứng cúng 50 mẫu ruộng ở trang Hoa Lưu để làm của Tam bảo chùa Quỳnh Lâm. Tư đồ Văn Huệ Vương thiền sư, Thượng Trân thái trưởng công chúa cúng 300 mẫu ruộng ở Cự Linh, Gia Lâm; lại cúng ruộng ở trang Vân Động, tất cả cộng là 1 nghìn mẫu và 1 nghìn nam nữ gia nô vào chùa Quỳnh Lâm. Vào năm Mậu Thìn niên hiệu Khai Thái thứ 5 (1328) tháng 3, Bảo Từ hoàng thái hậu, Bảo Huệ quốc mẫu mời sư đến chùa Quỳnh Lâm tập hợp sư sãi mười phương diễn giảng Đại Thừa chân kinh, lại lập đàn chay 10 ngày cầu cho Trần Anh Tông hoàng đế Bồ Tát. Minh Tông hoàng đế Bồ Tát phê chuẩn lời tâu của sư chùa cho cấm quân đến rước tượng Phật Di Lặc đặt lên điện và thếp vàng”.[8]

Văn bia còn cho biết chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) là chốn tổ của giáo hội Trúc Lâm, nơi san khắc các bộ kinh Phật[8]. Bia cũng nhắc đến việc đúc tượng Thiên Thủ Đại Bi (tức là tượng "Quan âm nghìn mẳt nghìn tay"). Tại Việt Nam, thời điểm xuất hiện tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay vẫn còn là vấn đề đang được thảo luận. Hiện mới biết được tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay chùa Bút Tháp là có niên đại xác định sớm nhất 1658 dù loại tượng này đã xuất hiện sớm hơn nhiều. Cho đến nay đã tìm thấy ba bia thời Trần nhắc đến loại tượng này là Bia Đại Bi Diên Minh (1327), Bia chùa Che (Phú Xuyên, Hà Nội) (1328) và Bia Thanh Mai ở mặt trước, dòng thứ ba tính từ cuối:

Đại Khánh bát niên, Tân Dậu, Thượng phẩm Hoài Ninh hầu thỉnh sư chú Thiên Thủ Đại Bi nhất tôn

Nghĩa là:"Năm Đại Khánh thứ 8 là năm Tân Dậu (1321), thượng phẩm Hoài Ninh hầu xin sư (tức là Pháp Loa) đúc một pho tượng Đại bi nghìn tay".[9] Tượng Quan âm ở đây đúc bằng đồng. Như vậy, tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay đã tồn tại ít nhất là từ thời Trần (đầu thế kỉ XIV). Đây là loại tượng chịu ảnh hưởng của Mật tông, như vậy câu văn này còn chứng minh sự ảnh hưởng của Mật tông lên Phật giáo Việt Nam khiến điện thờ thời Trần đã có loại tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay.[10].

Bài thơ Vãn Pháp Loa tôn giả đề Thanh Mai tự

Trên bia Thanh Mai còn khắc bài thơ Vãn Pháp Loa tôn giả đề Thanh Mai tự (挽法螺尊者題青梅寺 - Viếng thiền sư Pháp Loa đề thơ chùa Thanh Mai). Văn bản trên bia Thanh Mai được xác định là bản gốc của bài thơ được các sách sau này như Toàn Việt thi lục, Việt âm thi tập, Hoàng Việt thi tuyển và cả Tạp chí Nam Phong chép lại[11].

Bài thơ trên bia Thanh Mai không hề có phần đầu đề. Vì vậy khi biên soạn các tập thơ, các tác giả sau này đã đặt tiêu đề cho bài thơ. Việt âm thi tập hiện là bản sớm nhất có ghi tên bài thơ như trên, ngoài ra còn có dòng chữ Tôn giả Nhân Tông Anh Tông thời nhân phụ chú phía dưới tiêu đề bài thơ. Trong đó, chữ "Anh Tông" được viết dấu nháy ở trên để kiêng húy. Như vậy, có thể nói, "Việt âm thi tập" là văn bản đầu tiên đến nay tìm được có ghi tiêu đề bài thơ và ảnh hưởng đến các sưu tập về sau. Từ đó, hầu hết sách báo in lại bài thơ đều ghi nhầm tác giả là Trần Anh Tông, kể cả Tổng tập văn học Việt Nam Tập 2 (xuất bản năm 2000) vẫn còn in sai.[11][12]

Các nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định đây là bài thơ của Trần Minh Tông bởi năm 1330, khi Pháp Loa viên tịch thì Anh Tông mất đã lâu rồi (1320). Minh Tông đã viếng Pháp Loa, ban tên hiệu khi thiền sư viên tịch, lại ban 10 lượng vàng để xây tháp. Việc hoàng đế Minh Tông là tác giả bài thơ cũng đã được ghi rõ trên bia Thanh Mai.[11][13]

Nguyên văn bài thơ và phiên âm như sau:

垂手塵寰已了緣,

覺王金縷得人傳。

青山蔓草棺藏履,

碧樹深霜殼蛻蟬。

夜掩講堂今古月,

曉迷丈室有無煙。

相投針芥嗟非昔,

琢就哀章淚泫然。

Thùy thủ trần hoàn dĩ liễu duyên

Giác vương kim lũ đắc nhân truyền

Thanh sơn man thảo quan tàng lí

Bích thụ thâm sương xác thuế thiền

Dạ yểm giảng đường kim cổ nguyệt

Hiểu mê trượng thất hữu vô yên

Tương đầu châm giới ta phi tích

Trác tựu ai chương lệ huyễn nhiên

Dịch nghĩa:

Nhân duyên ở cõi trần đã hết, rũ tay ra đi

Chiếc y vàng của Điều Ngự đã có người truyền

Núi xanh cỏ biếc chôn giày nơi phần mộ

Cây xanh trong sương mù ve thoát xác

Đêm che giảng đường trăng kim cổ

Sáng mờ mịt trượng thất khói lúc có lúc không

Nhân duyên hội ngộ đặc biệt, ôi chẳng phải chuyện xưa

Gọt giũa văn buồn, lệ tràn đầy

— Bản dịch của Thiền Phong Phạm Văn Tuấn[11]

Dịch thơ:

Trắng tay chẳng chút nợ trần mang,

Đã có người truyền phép Giác vương.

Giầy xếp trong quan, nghìn núi cỏ,

Ve ra ngoài xác, một cây sương.

Trăng đêm nương náu trong tăng viện,

Mù sớm ngăn che trước pháp đường.

Kim cổ cùng nhau nay vắng vẻ,

Viếng ai một khúc lệ đôi hàng.

— Bản dịch của Đinh Văn Chấp, tạp chí Nam Phong[13][14]